di tích lịch sử- lễ hội
Đình Đông Dư Hạ
Ngày đăng 16/04/2015 | 00:00
Nằm về phía Đông Bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 9 km, có một địa chỉ văn hoá đã được UBND Thành phố xếp hạng di tích lịch sử - nghệ thuật năm 2007 đó là đình Đông Dư Hạ. Đình Đông Dư Hạ hiện nay thuộc thôn Đông Dư Hạ, xã Đông Dư, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.
Là một vùng đất được định cư và có nền văn hoá từ lâu đời, cùng với sự phát triển của con người các làng cổ với những mái đình, ngôi chùa cũng được dựng lên nhằm phục vụ sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng thờ cúng của nhân dân địa phương, đình Đông Dư Hạ cũng không ngoài mục đích đó. Tại đình, hiện còn lưu giữ và bảo tồn được các sắc phong ghi chép về việc tôn thờ ba vị Thành hoàng làng là thần Cao Sơn Đại Vương, thần Linh Lang Đại Vương và thần Bạch Đa.
Thần Cao Sơn có tên là Nguyễn Hiền và người em ruột là Nguyễn Sùng (tức thần Quí Minh) đều là con người cháu ruột của thần Sơn Tinh (tức Đức Thánh Tản Viên). Họ là người trang Thanh Uyên, huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Phú. Khi Thuỷ Tinh đem quân đánh Sơn Tinh và tộc Âu vây đánh nhà nước Văn Lang của Hùng Vương, thần Cao Sơn đã có công lớn cùng với Sơn Tinh chiến thắng thuỷ tặc quân Âu, bảo vệ nhà Hùng.
Đầu thời Lê Trung Hưng, thần Cao Sơn Đại Vương được nhà nước phong kiến đặc biệt đề cao. Nguyên do của sự kiện này là bởi thần đã có công phù trợ vua Lê giành lại ngai vàng, dẹp yên nạn chuyên quyền của ngoại thích. Sự kiện lịch sử trên đã được quan Quang Tiến Thân Lộc Đại phu, Thiếu bảo, Thượng thư Bộ Lễ, Đông các Đại học sĩ, kiêm tế tửu Quốc Tử Giám trông nom việc kinh điển của nhà Lê là Lê Tung soạn vào năm Canh Ngọ niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1510) và được ghi lại trên tấm bia đá niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 (1772) dựng tại đình Kim Liên – một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long.
Theo tấm bia "Cao Sơn Đại Vương thần từ bi minh tích tự" (bài minh kèm theo bài trần thuật tên bia đền thần Cao Sơn) thì lúc bấy giờ, Lê Mẫn (tức Uy Mục Đế) thất đức, hung bạo, càn rỡ. Kẻ ngoại thích chuyên quyền, bọn nội gián can dự vào chính sự khiến cho hàng triệu thường dân bị khốn khổ, tông thất và phiên thần bị giết hại, thần oán người giận mà không biết. Tháng 11 năm Kỷ Tỵ, đức vua Lê Tương Dực lánh lạn vào Tây Đô, dấy nghĩa binh khôi phục cơ nghiệp của vua Cao Tổ (Lê Lợi) cứu vớt ức triệu dân.
Bấy giờ có các vị thân thuộc của Trường Lạc Điện (vợ của Lê Thánh Tông) phụng mệnh đem quân đi chinh phạt, khi đến huyện Phụng Hoá, thấy giữa cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ đề bốn chữ "Cao Sơn Đại Vương". Bọn Văn Lữ trông thấy làm kinh dị bèn khấn cầu mong sự trợ giúp, do được thần Cao Sơn ngầm giúp nên chỉ trong 10 ngày việc lớn đã thành. Sau khi lên ngôi hoàng đế, Lê Tương Dực đã cho xây lại đền thờ, thần Cao Sơn được triều đình nhà Lê đặc biệt coi trọng.
Thần Linh Lang Đại vương là con thứ tư của vua Lý Thánh Tông. Tương truyền bấy giờ hoàng phi họ Nguyễn đang tắm ở Dâm Đàm (Tây Hồ) bỗng có thần rồng hiện ra phun nước thơm vào mình, về nhà bà mang thai, 14 tháng sinh ra Linh Lang. Vua Lý Thánh Tông cho bà đưa hoàng tử về nuôi dưỡng tại nơi ở cũ của bà trong trại Thủ Lệ. Linh Lang lớn lên tướng mạo khôi ngô, trên người có tướng lạ. Bấy giờ quân nhà Tống do Triệu Tiết chỉ huy sang cướp phá biên giới nước ta, kinh thành náo động. Vua sai sứ đi chiêu mộ người có tài đi đánh giặc. Sứ giả tới trại Thủ Lệ, Linh Lang sai mời sứ giả vào nhà, bảo sứ giả trở về xin vua ban cho một ngọn cờ hồng, một thớt voi đực để đi đánh giặc. Nhà vua không những chuẩn ý theo lời đề nghị của vương mà còn cấp thêm mười vạn binh lính, vương lại mộ thêm nghĩa sĩ của bản trại được 121 người, cho sắm sửa các thứ mang tới, Linh Lang hô to một tiếng, con voi lập tức nằm phục xuống, Linh Lang cầm cờ nhảy lên lưng voi phóng ra trận, vừa phất cờ vừa đánh, giặc thua chạy tan tác. Sau khi thắng giặc, Linh Lang trở về nơi ở cũ, ít lâu sau thì mắc bệnh nặng. Vua tới thăm hỏi, Linh Lang tâu rằng mình không phải là người trần, nay đã đến hạn phải ra đi. Nói rồi hoá thành con giao long trắng dài trăm trượng, trườn xuống Dâm Đàm biến mất. Sau đó trời mưa lớn liền trong mấy ngày. Khi trời vừa tạnh, từ trên trời bay xuống rất nhiều cờ đỏ, cắm xuống trước cửa Ngọ Môn. Vua bèn phong tước cho thần là Linh Lang Đại Vương, sửa lại nơi ở cũ của đại vương làm đền thờ.
Thần Linh Lang Đại Vương ngoài thờ ở đền Voi Phục (Thủ Lệ) còn được thờ ở rất nhiều nơi trên cả nước, mỗi nơi đều có bản thần tích riêng. Theo sự thống kê của thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, thì tại đây đã lưu giữ, bảo quản hơn 80 văn bản thần tích ghi chép sự tích thần Linh Lang. Qua đối chiếu trên một số văn bản, nhận thấy trong cách ghi chép người xưa đã khẳng định công lao đánh giặc ngoại xâm của Đại Vương. Hình tượng người anh hùng trong công cuộc đánh dẹp giặc ngoại xâm đã được phụng thờ trong các di tích, không chỉ mang ý nghĩa thờ cúng theo tín ngưỡng cổ truyền mà chính là vị thần trấn giữ phía Tây Kinh thành một biểu tượng sinh động để giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc cho muôn đời sau.
Về Thần Bạch Đa, trong cuốn Di tích lịch sử văn hoá Việt Nam – Bảng tra cứu các tài liệu thư tịch Hán Nôm của Viện khoa học xã hội Việt Nam – Viện nghiên cứu Hán Nôm – NXB KHXH – 1991, trang 226 có ghi như sau: Đình làng Đại Vi (làng Ve) nay là xã Đại Đồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc, thờ ba vị nhân thần là Chàng Ngọ, Chàng Mai và Bạch Đa. Sự tích kể rằng Chàng Ngọ và Chàng Mai là hai anh em sinh đôi quê ở động Hoa Lư, bà mẹ nằm mộng lấy được râu rồng rồi có mang, sinh ra hai chàng. Còn Bạch Đa là em họ, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được bố mẹ hai chàng đón về nuôi đến khi Đinh Bộ Lĩnh nổi lên khởi nghĩa, dẹp loạn sứ quân, nghe tiếng ba ông bèn vời ra giúp nước, phong chức Đô Uý. Ba ông mộ được mấy nghìn quân, đóng ở chùa trang Bối Khê, đạo Sơn Nam. Gặp khi giặc Ngô sang cướp nước ta ba ông cầm quân đánh tan giặc, đến đóng đồn ở trang Đại Vi. Bất ngờ giặc Ngô đang đêm đến vây đánh, ba ông không chống lại đựoc, chết ở xứ Đồng Miếu. Dân làng cảm phục lập miếu thờ. Đến khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi phong ba ông làm phúc thần. Đời Lê Đại Hành ban sắc phong là tam vị Linh ứng Đại Vương và cho phép nhiều làng lập đền thờ.
Như vậy vị thần Bạch Đa không những được thờ tại đình làng Đại Vi mà được thờ ở nhiều nơi, cụ thể như ở đình Đông Dư Hạ hiện có 6 đạo sắc phong cho vị thần Bạch Đa, sắc sớm nhất vào ngày 10 tháng 2 năm Vĩnh Khánh 2 (1730), sắc muộn nhất là ngày 18 tháng 3 năm Khải Định 2 (1927).
Theo truyền tích cũng như các vị cao niên trong làng kể lại, đình Đông Dư Hạ thờ ba vị thần nêu ở trên là những người có công danh, hành trạng to lớn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ nền độc lập của đất nước. Tuy là huyền thoại nhưng cái lõi của nó vẫn xuất phát từ thực tế lịch sử và đi vào tâm thức của nhân dân và được nhân dân tôn vinh, phụng thờ. Chính vì thế mà những huyền thoại, những nhân vật được phụng thờ tại di tích đình Đông Dư Hạ mang ý nghĩa lịch sử, văn hoá và nhân văn sâu sắc.
Đình Đông Dư Hạ toạ lạc trên một khu đất rộng rãi ở giữa làng "Tiền quang, hậu thoáng" gồm các đơn nguyên kiến trúc: nghi môn, tiền tế, trung tế và hậu cung.
Nghi môn đình xây hướng Đông Bắc, hai bên là hai cột trụ biểu, đỉnh trụ đắp hình trái giành, phía dưới bổ ô lồng đèn đắp nổi đề tài tứ linh, thân trụ để trơn. Qua cổng nghi môn và một khoảng sân nhỏ được lát gạch Bát Tràng màu đỏ 30x30cm là đến toà tiền tế.
Tiền tế có kết cấu năm gian, phía trước mở ba cửa kiểu "Thượng song, hạ bản". Kết cấu kiến trúc bốn hàng chân cột, vì kèo kiểu giá chiêng, mái phân "Thượng nhị, hạ tam". Xây kiểu tường hồi bít đốc, chính giữa bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, hai bên là hai đầu kìm, mái lợp ngói mũi hài, nối hai đầu bậc ngũ cấp là hai cột trụ biểu, đỉnh trụ đắp hai con nghê, phần ô lồng đèn đắp nổi đề tài tứ linh và tứ quý, thân trụ đắp đôi câu đối:
"Thần thánh kính tôn, vạn đại trường tồn danh hiển tích
Miếu đình linh bái, thiên niên hằng tại đức lưu quang".
Dịch nghĩa:
Thần thánh tôn nghiêm, muôn đời trường tồn danh hiển tích
Miếu đình thiêng lễ, ngàn năm vĩnh viễn đức lưu quang.
Trung tế có cấu trúc ba gian, mái lợp ngói tây, phía trước mở ba cửa kiểu panô, hai bên hồi là cửa sổ chấn song sắt, bộ khung đỡ mái với 4 bộ vì kèo làm kiểu kèo kìm quá giang, mái phân thượng tam hạ tứ, nền nhà lát xi măng. Gian giữa treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh". Bên dưới là hương án, phía trên đặt các đồ thờ tự được chạm khắc khá tỉ mỉ và công phu với các đề tài trang trí hình phượng vũ, rồng hoá lá, rồng chầu, hổ phù mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
Phần tiếp giáp gian giữa trung tế là hậu cung của đình được xây một gian, mái làm bằng bê tông, chính giữa là ban thờ xây bệ gạch cao 120 cm, phía trên đặt long ngai các vị Thành hoàng làng cùng các đồ thờ tự khí khác.
Trải qua thời gian và những biến thiên thăng trầm của lịch sử, di tích đình Đông Dư Hạ không còn bảo tồn được những kết cấu kiến trúc ban đầu nhưng đình vẫn còn bảo lưu được nhiều di vật quý, là nguồn tư liệu giúp cho việc tìm hiểu về lịch sử ngôi đình và đời sống vật chất, tinh thần của một làng quê truyền thống, minh chứng cho bề dày lịch sử của một vùng đất cổ. Đình Đông Dư Hạ là một di tích có giá trị nhiều mặt, rất cần được trân trọng, gìn giữ. Việc thờ các vị Thành hoàng làng ở đình là sự biểu hiện truyền thống Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây tốt đẹp của nhân dân ta.