di tích lịch sử- lễ hội

DI TÍCH CHÙA - ĐỀN BÀ TẤM VÀ HOÀNG THÁI HẬU Ỷ LAN
Ngày đăng 06/05/2013 | 00:00

Đền - Chùa Bà Tấm là tên gọi phổ biến trong nhân dân để chỉ khu di tích tưởng niệm về một nhân vật nổi danh của lịch sử dân tộc ở thời Lý. Đền còn có tên gọi theo địa danh là đền Dương Xá, hay đền Ỷ Lan, chùa có tên chữ Linh Nhân Tư Phúc tự.


Đền - Chùa Bà Tấm hiện nay thuộc xã Dương Xá, huyện Gia lâm, ngoại thành Hà Nội. Thời Lý di tích thuộc hương Thổ Lỗi, sau đổi thành hương Siêu Loại, rồi huyện Siêu Loại. Từ thời Lê Trung Hưng, văn bia cổ cho biết đền chùa Bà Tấm thuộc hai xã Dương Xá và Dương Nguyên, huyện Siêu Loại. Trước năm 1944, các xã trên đều thuộc cùng một tổng Dương Quang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1961, xã Dương Xá thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Đền - Chùa Bà Tấm nằm ở phía đông bắc ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành phố chừng 16km. Đền và chùa tọa lạc trong cùng một khuôn viên rộng và thoáng mát, sát quốc lộ 5 chạy qua. Diện tích khoảng trên dưới 2 ha.
Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan, tên thật là Lê Thị Yến, sinh ngày 7/3 năm Giáp Thân (1044), mất ngày 25/7 năm Đinh Dậu (1117). Bà xuất thân trong một gia đình làm nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, Bà nổi tiếng là người thông minh, xinh đẹp, nết na, dịu hiền, cha Bà là ông Lê Công Thiết và mẹ là bà Vũ Thị Tình quê làng Thổ Lỗi sau đổi thành Hương Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
Trở về hương Thổ Lỗi/ Siêu Loại gặp lại cuộc xe duyên trời định giữa bậc quân vương (Lý Thánh Tông) với người con gái làm nghề tằm tang được sử liệu ghi chép: "Quý Mão năm thứ 5 (1063), vua tuổi lớn, 40 tuổi chưa có con trai, sai chi hậu nội nhân là Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa... Tục truyền, vua cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, mới đi chơi khắp các chùa quán. Xe vua đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy chỉ có một người con gái hái dâu cứ đứng tựa vào bụi cỏ lan. Vua trông thấy cho đưa vào cung, phong làm "Ỷ Lan phu nhân"([1]) xây riêng cho Bà cung Động Tiên (thuộc vào khu vực phố Đông Thành, ngõ Tạm Thương thuộc quận Hoàn Kiếm ngày nay) và đặt tên là Cung Ỷ Lan để nhớ lại sự tích cô gái tựa gốc cây lan buổi đầu gặp gỡ.
(Sau đó, Ỷ Lan phu nhân có mang sinh ra Hoàng tử Càn Đức (1066) được lập làm Hoàng thái tử, bà được phong làm Thần Phi. Năm 1068, mùa xuân, tháng 2, Thần Phi Ỷ Lan sinh tiếp Hoàng tử Minh Nhân vương. Sau đó, từ Thần Phi Bà được thăng làm Nguyên Phi).
Năm 1069 Vua Lý Thánh Tông thân chinh cùng Thái úy Lý Thường Kiệt đánh giặc ở Chiêm Thành, Bà nắm quyền nhiếp chính xây dựng được khối đoàn kết, đảm bảo cho bộ máy triều đình hoạt động hiệu quả như: cứu dân đói, trị tham nhũng góp phần chi viện cho trận tiến công chống quân Chiêm ở phương Nam.
Tháng giêng năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng Thái Tử Càn Đức nối ngôi, lấy vương hiệu là Lý Nhân Tông, Bà là Hoàng Thái hậu nắm ngôi nhiếp chính từ 1073, lần nhiếp chính này Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan đã thực sự nắm quyền triều chính, quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước. Bà đã cùng với Thái úy Lý Thường Kiệt lãnh đạo quân và dân Đại Việt, đánh bại quân Tống giữ vững giang sơn vào các năm 1075-1077. Đất nước hòa bình, Bà cùng với triều đình đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển giáo dục khoa cử và tuyển dụng nhân tài cho đất nước như: "xuống chiếu cầu người nói thẳng"; "cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quân dân"; " chọn quan viên quan chức người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám"; "thi lại viên bằng thư"; "viết chữ toán và hình luật"; nạo vét sông ngòi tạo điều kiện cho giao thông đường thủy thuận lợi; Bà cùng nhà vua thi hành nhiều chính sách nhằm phát triển và bảo vệ sức sản xuất nông nghiệp như: cày ruộng tịch điền, khuyến khích dân trồng dâu chăn tằm, dệt vải, đắp đê ngăn nước, nghiêm trị và trị tội nặng những kẻ trẻ trộm trâu. Thực thi chính sách nhân nghĩa như: những năm đại hạn thì giảm hoặc tha tiền tang thuế, thả tù, phát tiền trong kho cho chuộc lại những con gái nhà nghèo đã bán đợ mình, đem gả cho những người góa vợ([2]). Bà còn là người sùng phật, sử chép: " riêng Linh Nhân Hoàng Thái Hậu đã dựng đến 100 ngôi chùa"... chẳng vậy mà Bà được ví như Quan Âm nữ. Nội dung đôi câu đối tại đền phần nào phản ánh ân đức của Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan như:
Mẫu nghi đoan chính chiêu thiên cổ`
Thánh trạch linh quang ngưỡng vạn niên
Nghĩa là:
Mẫu nghi đoan chính người muôn thuở
Ơn thánh sâu xa kính vạn năm.
Ngày nay, quanh vùng Hà Nội khi nhắc tới chùa đền Bà Tấm dường như mặc nhiên người ta nhắc tới ngôi chùa, ngôi đền, cùng tên ở xã Dương Xá. Đây là hai kiến trúc được quy hoạch chính trong một khuôn viên rộng, đẹp và thoáng mát sát quốc lộ 5. Từ quốc lộ vào là một đường lớn dẫn vào khu di tích, đồng thời là đường phân cách đền và chùa. Trên trục đường vào di tích xây dựng hai cổng lớn. Lớp cổng ngoài xây gạch bố cục dạng nghi môn với các trụ biểu. Trên cổng có bốn chữ Hán "Phúc như Đông Hải" (phúc như Biển Đông). Cách đó chừng 30m là lớp cổng trong. Phía sau cổng này chia thành hai khu thờ chính, chùa Linh Nhân Tư Phúc tọa lạc phía đông, phía tây là nơi ngôi đền có tượng Bà ngự.
Tương truyền chùa được Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan cho xây dựng, trải qua các triều đại Trần, Lê sơ, Mạc và các triều đại kế tiếp, đã được trùng tu nhiều lần. Dấu ấn ngôi chùa cổ được cho là thời Mạc bị phá vào khoảng thập kỷ 80 thế kỷ XX. Kiến trúc hiện còn là kết quả của lần phục dựng vào đầu những năm 90 thế kỷ trước, bao gồm: Mặt bằng chùa kiểu chữ nhị (=), khoảng sân trước lát gạch hình chữ nhật. Hai nếp nhà có quy mô và kiểu dáng giống nhau: gồm 3 gian 2 dĩ với 4 mái cong. Tiền đường để trống 4 mặt làm nơi cho khách thập phương sắp lễ. Thượng điện (tam bảo) là nơi bài trí các pho tượng Phật. Các tượng Tam Thế, A Di Đà, Quan Âm và tòa Cửu Long tọa lạc trên một bệ thờ lớn xây gạch, dưới bệ thờ gắn hai đầu sư tử đá thời Lý. Hai bên tam bảo hiện để phiến đá"thành bậc" chim phượng và 4 tấm bia đá cổ của thời hậu Lê.
Hai đầu sư tử đá có kích thước khá lớn (cao 110, rộng 140cm), mọi chi tiết ở sư tử với những "khối căng no đủ" đầy chất điêu khắc, đã khẳng định về sức mạnh diệu kỳ của nó. Sư tử có trán lạc đà ngắn, giữa trán chạm chữ "Vương" để biểu hiện quyền năng tối thượng của linh vật tầng trên. Dưới chữ "Vương" là một u tròn lớn được viền diềm có nhiều u tròn nhỏ, dưới đó là chiếc mũi lớn bè, chạm nhiều đường cong song hàng, mắt giọt lệ kép, viền trên bằng hàng văn dấu hỏi tròn. Miệng sư tử mở rộng, há vừa phải, để lộ răng, lưỡi đỡ viên ngọc, tai kiểu thú đặt trên mang bạnh. Điểm xuyết trên mang là nhiều ổ các văn dấu hỏi cùng chạy về một tâm (theo nhà dân tộc học Từ Chi thì đó là hình tượng của nguồn phát sáng như mặt trời hoặc tinh tú). Sau mang là hệ thống tóc gồm nhiều hàng văn xoắn lớn, mà nhiều khi cứ ngỡ đó là hình tượng nghệ thuật hoá của chớp. Chân sư tử có 5 móng gà. Theo Phật giáo, sư tử là hiện thân của sức mạnh trí tuệ. Song, với những biểu tượng của tinh tú trên thân, sư tử đá chùa Bà Tấm còn mang ý nghĩa cõng bầu trời chuyển động.
Thành bậc "chim Phượng" là một hiện vật đá liền khối tương đối lớn (tương ứng với nhiều bậc lên, cao 80cm, ngang 130cm) nó khẳng định nền chùa khá cao (xấp xỉ 1 m). Thành bậc có hình tam giác vuông, phía trên là một con Lân đang chạy xuống. Dưới Lân là hàng hoa dây chạm nổi như đồ khảm (một hình thức phổ biến của nghệ thuật thời Lý) làm đường viền ở phía trên cho chim thiêng. Trong ô trang trí tam giác lớn, với nền cũng là hoa dây, mà mỗi hoa nổi lên thành một u tròn (5-6 cm), là con chim mang hình thức Phượng, với mỏ vẹt có mang lớn, tóc chải, cánh kép mở rộng, thân có vẩy kép kiểu cá chép, một chân co ngang, một chân đứng thẳng trong hình thức khá quy phạm, chim Phượng đứng một chân trên bông sen, ngực ưỡn về phía trước, đầu ngoảnh nhìn phía sau, đôi cánh dang rộng và có một bộ đuôi dài uốn lượn, khúc nhỏ dần chạy tới góc khung. Người ta vẫn có thể đọc được ở con chim này nhiều ý nghĩa: đầu đội công lý và đức hạnh, mắt là mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, lông là cây cỏ, chân là đất… Nó là hiện thân của thánh nhân. Ở đây chim còn đứng trên đài sen, chứng tỏ nó ở đất Phật và miệng ngậm lá Đề (tượng cho giác ngộ), phải chăng chim còn là "ca lăng tần già" với giọng dịu hoà biết giảng về đạo pháp. Trong các di tích thời Lý, những chim thiêng lớn kiểu trên ít nhiều còn gắn với hoàng hậu.
Trong khu di tích còn có nhiều chân tảng đá mài của thời Lý, những mảnh gốm và chim uyên ương cụt đầu . Đặc biệt trong di tích còn bảo lưu được 4 tấm bia đá cổ có niên đại thời hậu Lê. Trong đó có bia niên hiệu Đức Long 6 (1642) và bia niên hiệu Bảo Đại 18 (1943) đã ghi lại năm tu bổ chùa.
Đền thờ Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan có qui mô kiến trúc lớn gồm ba phần: Khu kiến trúc chính, gò cao với am thờ nhỏ và một ao tròn có nhà thuỷ đình mới được xây dựng vào những năm 90 của thế kỷ trước.
Khu đền chính với qui mô kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc. Phía trước là một nếp nhà lớn ba gian xây gạch kiểu hai tầng bốn mái. Lòng nhà chia làm ba gian, nền lát gạch Bát Tràng. Mặt trước mở ba cửa lớn hình chữ nhật, phía sau để trống thông với bên trong.
Sau lớp nhà ngoài là một kiến trúc lớn xây gạch cao hơn những nếp nhà khác của đền đó là Nghi môn mở ba lối vào. Chính giữa xây lầu cao bốn mái cong. Tầng trên mở bốn cửa vòm lớn trông ra bốn hướng và những ô cửa nhỏ hình chữ nhật. Xung quanh tầng lầu xây lan can gạch (cao gần 1m). Nền của tòa này cao 40 cm so với khu thờ cúng bên trong. Chính giữa tòa có bệ thờ và phía trên đặt bức hoành phi ghi bốn chữ Hán "Thánh cung vạn tuế".
Khu thờ chính có mặt bằng hình chữ công gồm tiền tế nhà cầu và hậu cung. Tiền tế là nếp nhà ngang ba gian xây gạch kiểu tường hồi bít đốc tay ngai. Các bộ vì đỡ mái kết cấu "kiểu chồng rường hạ bẩy". Các cột sơn son vẽ rồng uốn lượn quanh thân gỗ. Các xà nách, câu đối trang trí đầu rồng đao lửa uốn gấp nhịp nhàng. Các mô típ trang trí trên kiến trúc này được chạm nổi khối, thân mập khỏe khắn. Trong đó nhiều mảng có đặc điểm nghệ thuật của thế kỷ XVII.
Nhà cầu nối tiền tế và cung cấm gồm ba gian, kiểu hai tầng bốn mái. Hai mái trên làm dạng "vì kèo quá giang", đỡ phần mái dưới là hệ thống kẻ nách ăn mộng qua đầu cột cái. Nền giữa hai hàng cột được tôn cao, là nơi lưu giữ các đồ thờ như: khám, long đình.
Cung cấm - nơi đặt khám trong có tượng thờ Bà Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan là một kiến trúc cổ kiểu bốn mái cong thấp, gồm một gian hai dĩ. Hai bộ vì chính có kết cấu "thượng rường hạ kẻ", bốn góc nhà có kẻ xó nhằm tăng thêm sự bền vững của công trình truyền thống. Các cột tròn đặt trên chân đá tảng chạm hình cánh sen dầy, phía trước mở hai cửa nách. Chính giữa lòng nhà là ban thờ Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan và sáu vị cung nữ trong triều (lục bộ). Tượng Hoàng Thái Hậu được đặt trong khám gỗ chạm lớn, vẻ mặt đôn hậu, nhân từ, sáu cung nữ chia làm hai ban thị giả, làm tăng thêm uy lực của Thánh mẫu.
Hai bên đền có hai dẫy nhà giải vũ xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Các bộ vì được làm đơn giản chủ yếu bào trơn, đóng bén. Tường bao xây gạch trần, toát lên sự cổ kính chung cho ngôi đền.
Những di vật còn lại, kết quả những cuộc hội thảo khoa học, những nghiên cứu khảo cổ học xác nhận chắc chắn nguồn gốc của cụm di tích này có từ thời Lý. Đôi sư tử đá trên đầu có chữ "vương" cùng thành bậc đá mặt bên trang trí chim phượng với những đặc điểm đặc trưng thời Lý, thêm phần khẳng định nơi đây từng hiện diện công trình có kiến trúc quy mô, bề thế? Trên cơ sở đó, năm 1987, tại địa điểm gần di tích chùa Bà Tấm, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội phối hợp với Viện khảo cổ học tiến hành khảo sát khai quật khảo cổ. Kết quả chứng minh di chỉ thuộc thời dựng nước, cách ngày nay khoảng 3000 năm; những ngôi mộ của các giai đoạn muộn hơn, với những di vật thuộc các thời kỳ khác nhau từ Đông Hán tới Lý, Trần, Lê..., phản ánh quá trình định cư, phát triển liên tục của người Việt trên vùng đất Dương Xá trong suốt mấy nghìn năm lịch sử. Năm 2007 Sở Văn hoá thông tin Hà Nội tiếp tục phối hợp với Bảo tàng Lịch Sử Việt Nam tiến hành khai quật ngay trong khuôn viên của cụm di tích. Kết quả khai quật lần này củng cố chắc chắn thêm niên đại khởi dựng cụm di tích.
Ngôi chùa do chính Bà xây dựng, đền là nơi tưởng niệm về Bà. Hệ thống truyền thuyết, các địa danh, cùng những di vật/cổ vật quý và đắt giá có từ thời Lý đã tạo cho cụm di tích chùa, đền Bà Tấm trở thành một địa chỉ văn hóa nổi bật và quan trọng trong hệ thống di tích tưởng niệm về Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan trên quê hương của Bà.
Tháng 7 mùa thu ngày 25 năm Đinh Dậu (1117), Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu băng, mai táng ở Thọ Lăng, phủ Thiên Đức, tỉnh Bắc Ninh. Bà trở thành biểu tượng của một phụ nữ tài sắc, nhân nghĩavẹn toàn. Nhiều nơi đã lập đền thờ Bà như ở Hà Nội là di tích Đền Yên Thái số 8 ngõ Tạm Thương, Quận Hoàn Kiếm; di tích Đền Bà Tấm xã Dương Xá; di tích đền Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm; ở Hưng Yên là di tích Đền Ghênh xã Như Quỳnh và di tích chùa Hương Lãng xã Minh Hải, huyện Văn Lâm càng thêm khẳng định tài năng, đức hạnh của Bà thấm nhuần, lan tỏa trong tâm thức người Việt.
Lễ hội đền Bà Tấm trước đây được tổ chức ba ngày từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 2 âm lịch, hội có quy mô lớn, không phải chỉ có Dương Xá tổ chức mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm 9 xã suốt từ Phú Thị cho tới Văn Lâm- Hưng Yên) cùng tham dự. Trong những ngày hội, ngoài đám rước trọng thể, các trò chơi truyền thống, thượng võ đã cuốn hút động đảo nhân dân địa phương tham dự. Bên cạnh đó vào ngày 25 tháng 7 tương truyền là ngày giỗ của Bà và là ngày Bà làm lễ giải oan cho Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ bị chết oan, cũng được nhân dân Dương Xá tổ chức long trọng.
Hướng tới 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Kỷ niệm 1000 năm trước nhà Lý định đô ở đất Thăng Long; Đảng uỷ - HĐND - UBND xã Dương Xá được sự đồng ý của lãnh đạo thành phố và huyện Gia Lâm, sự đồng thuận của nhân dân đã và đang tiến hành việc xây dựng tượng đài Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan ngay tại khu di tích lịch sử đền - chùa Bà Tấm. Đây là nguyện vọng của nhân dân xã Dương Xá đồng thời cũng là nguyện vọng của nhân dân Gia Lâm, thể hiện đạo lý" Uống nước nhớ nguồn" biết ơn tiền nhân, thể hiện sự tri ân với Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan.

Tượng đài Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan đã được xây dựng trước khuôn viên di tích, đây là một công trình văn hoá mang ý nghĩa lịch sử tại cửa ngõ phía Đông Bắc thủ đô Hà Nội, là công trình chào mừng đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, một công trình tôn vinh danh nhân lịch sử có công lao to lớn đối với đất nước, đối với lịch sử dân tộc, thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn", góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ và cũng là niềm tự hào của Thủ đô Hà Nội nói chung, nhân dân Gia Lâm nói riêng đồng thời tôn thêm vẻ đẹp của di tích, một địa điểm di sản văn hoá thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế.


[1] Đại Việt sử ký toàn thư (TT), tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, tr231.
[2] ĐVSKTT. tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972-Tr242